Thực đơn
Quyền_LGBT_ở_Việt_Nam Xã hộiCác từ đồng tính , song tính, chuyển giới, đa dạng giới là từ khoa học và mang tính trung lập song các từ pê-đê, xăng pha nhớt, bóng lộ, bóng kín, hai thì, hifi mang tính xúc phạm ít hoặc nhiều.[33] Các thuật ngữ hay từ lóng còn lại chỉ phổ biến trong cộng đồng đồng tính. Cụm từ thế giới thứ ba mặc dù không mang tính xúc phạm và được dùng phổ biến bởi người dân và báo chí nhưng nó không có định nghĩa rõ ràng và thường để chỉ cộng đồng người đồng tính, song tính, người hoán tính/chuyển đổi giới tính, đa dạng tính, questioning (những người đang trong giai đoạn tìm hiểu về mình) một cách không phân biệt. (Nói thêm: Tuy "thế giới thứ ba" là một thuật ngữ phân chia địa lý nhưng nó vẫn bị người Việt Nam nhầm lẫn như một thuật ngữ để xếp những người LGBTQ+ vào một nhóm).
Nhìn chung, ở Việt Nam thái độ của xã hội đối với đồng tính luyến ái là kỳ thị ở các mức độ khác nhau hoặc không thể hiện thái độ rõ ràng như phớt lờ, không quan tâm. Một tỉ lệ rất nhỏ người dân có thái độ cởi mở với người đồng tính. Nhiều người bắt đầu kêu gọi nên có thái độ cởi mở hơn đối với người đồng tính. Chưa có ghi nhận nào về sự khuyến khích, cổ vũ việc đồng tính luyến ái.
Nghiên cứu của Viện iSEE về sự kỳ thị của người đồng tính nam tại Việt Nam cho thấy:[34]
Theo tiến sĩ Marie-Eve Blanc, một giảng viên ở Đại học Montreal, Québec (Canada), người từng nghiên cứu về nguy cơ sức khỏe của nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam ở Việt Nam, đồng tính luyến ái chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam là do tư tưởng Khổng giáo. Theo Khổng giáo, người đàn ông nên lập gia đình và sinh con để nối dõi tông đường. Người đồng tính trẻ thường bị áp lực bởi gia đình là phải lập gia đình. Cha mẹ thường cảm thấy an tâm khi con trai họ đã lập gia đình. Nhưng sau khi lập gia đình, đồng tính luyến ái trở thành một bí mật và là cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân.[35]
Nhiều người cho rằng đồng tính luyến ái là do ảnh hưởng lối sống của phương Tây. Tuy nhiên theo tiến sĩ Blanc, điều này không đúng. Ngoài ra, sự du nhập của đạo Cơ đốc càng làm cho thành kiến đối với người đồng tính càng nặng nề hơn. Hơn nữa, hầu như các nước Đông Nam Á đều có thành kiến nặng nề với người đồng tính trừ Thái Lan, đất nước không bị đô hộ bởi phương Tây trong quá khứ.[35]
Nhiều người coi đồng tính luyến ái là không bình thường thậm chí là bệnh hoạn đặc biệt là ở nông thôn. Hành vi âu yếm của hai người cùng giới có thể làm cho nhiều người cảm thấy ghê tởm.[36] Nhiều bậc cha mẹ cảm thấy bị tổn thương, kinh ngạc, giận dữ, mắc cỡ hoặc hoang mang khi biết con mình đồng tính. Một số người tìm cách thay đổi con mình, trong khi một số người khác thì không quan tâm đến con nữa.[37]
Tuy nhiên, một số ít người bắt đầu cho rằng đồng tính luyến ái không phải là bệnh.[38] Thái độ của họ đối với người đồng tính có xu hướng cởi mở hơn.[39] Một số nhà tư vấn tâm lý cũng khuyên mọi người nên có thái độ bình tĩnh, tìm cách thấu hiểu và hỗ trợ khi biết người thân hoặc bạn bè là người đồng tính đặc biệt là cha mẹ khi biết sự thật về con mình.[40] Cha mẹ cũng cần thời gian để dần dần chấp nhận việc này.[41]
Trong cuộc thăm dò năm 2007 của Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh với 1 nhóm học sinh cấp 3, với câu hỏi "Người đồng tính luyến ái có xấu hay không?", hơn 80% học sinh trả lời là "không". Các học sinh này giải thích rằng vì đó là quyền tự do của mỗi người hoặc việc là người đồng tính không phải lỗi do bản thân người đó. Khi phát hiện trong lớp có bạn đồng tính, 72% học sinh khẳng định vẫn giữ mối quan hệ bình thường với bạn, kèm theo động viên (34%) và giữ kín bí mật cho bạn (35%), 2% học cảm thấy khinh bỉ và 13% thấy sợ.[29]
Vài chuyên gia tâm lý cho rằng giáo viên cần tôn trọng sự riêng tư của học sinh đồng tính và nên động viên họ để họ không tự đánh giá thấp bản thân, còn cha mẹ của những học sinh này cũng cần được cung cấp kiến thức về vấn đề này để tạo mối quan hệ gần gũi, thông cảm để họ không cảm thấy bị cô lập.[29]
Phần lớn người dân chưa hiểu biết nhiều và đúng về đồng tính luyến ái. Nhiều người không phân biệt được những khái niệm người đồng tính luyến ái, người hoán tính/chuyển đổi giới tính, người lưỡng tính, người đa tính dục mặc dù đây là những khái niệm khác nhau. Hơn nữa, đa số cho rằng đàn ông nữ tính hoặc phụ nữ nam tính là những người đồng tính. Có bài báo chỉ ra việc hiểu sai của nhiều người và giải thích rõ ràng sự khác biệt của ba khái niệm này.[42] Một bài báo nêu ra rằng những người đồng tính nam hiện nay thuộc ba nhóm chủ yếu: 70% có bề ngoài giống như những người đàn ông bình thường, khoảng 10% người ăn mặc, trang sức, tác phong như phụ nữ và khoảng 20% thuộc nhóm nằm giữa hai nhóm này. Bên cạnh đó, quan niệm cho rằng ngày nay càng có nhiều người đồng tính là do đua đòi cũng khá phổ biến. Tuy vậy, một bác sĩ cho biết ngày nay lượng người đồng tính dám thể hiện mình nhiều hơn không phải vì họ tăng lên mà chỉ vì cái nhìn của xã hội đã dần thông thoáng.[42]
Một số vấn đề vi phạm pháp luật liên quan tới người đồng tính hay được đăng trên các báo trong khi đó những mặt tích cực chưa được biết tới vì nhiều lý do. Nhiều bài báo cho rằng tội phạm đồng tính đang gia tăng.[43][44] Vài người lợi dụng mối quan hệ không công khai, để giết bạn tình là người đồng tính và cướp tài sản.[45][46] Vài tờ báo đăng về hiện tượng mại dâm nam trong đó người mua dâm có thể là những phụ nữ trung niên hoặc người đồng tính nam. Vài vụ đã bị công an phát hiện.[47][48] Đây là cách nhìn phân biệt đối xử do tội phạm có thể là bất cứ giới tính nào. Đồng thời, điều này có thể mang tính xúc phạm do không dùng đúng tên gọi của giới tính trên tiêu đề (đồng tính là cách gọi chung cho cả đồng tính nữ và nam). Những tin tức này có thể làm cho người dân đánh giá người đồng tính chỉ dựa trên một bộ phận trong cộng đồng này. Để có cái nhìn chính xác về các mặt pháp luật cần phải có những thống kê và nghiên cứu tỉ lệ phạm tội của người đồng tính và của người không phải là đồng tính cũng như những yếu tố đặc thù liên quan.
Điều tra quốc gia về "Quan điểm xã hội với hôn nhân cùng giới" được Viện Xã hội học (Viện Hàn lâm Khoa học - Xã hội Việt Nam) và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) công bố ngày 26/3/2014, cuộc điều tra được thực hiện tại 68 xã, phường thuộc 8 tỉnh, thành phố tại Việt Nam gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Đắk Lắk, TP.HCM, An Giang, Sóc Trăng với sự tham gia của 5.300 người dân.:[49]
Định kiến đối với người đồng tính trên báo chí được cho là giảm theo thời gian mặc dù tỉ lệ kỳ thị còn cao. Năm 2009, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường cùng với Học viện Báo chí và Tuyên truyền, qua nghiên cứu hơn 500 bài báo thuộc bốn báo in và sáu báo mạng, cung cấp kết quả tỉ lệ kỳ thị chiếm 41%, không kỳ thị chiếm 18%, không xác định 41%. Tuy nhiên, cộng đồng đồng tính Việt Nam rất đa dạng, không như mô tả của hơn 500 bài báo này.[33] Có người cho rằng các cơ quan truyền thông cần đăng tải những bài viết, hình ảnh "người thực việc thực".[32]
Vấn đề đồng tính là chủ đề chính trong các bài báo chỉ chiếm tỷ lệ 1/3. Tỷ lệ 2/3 còn lại, đồng tính được nhắc đến như chủ đề phụ. Khi nói về những người nổi tiếng, đồng tính được sử dụng là chi tiết để gây sự chú ý cho người đọc cho thấy cách nhìn nhận vấn đề chưa đúng đắn. Điều này khiến xã hội có cái nhìn phiến diện về đồng tính luyến ái.
Rất ít bài báo đề cập đến nguy cơ hành vi tình dục của người đồng tính và nếu có đề cập, thông tin cũng mơ hồ và không đầy đủ. Nhiều bài viết thiên về quan niệm hành vi tình dục của người đồng tính là đáng lên án, lệch chuẩn, là ăn chơi đua đòi, sống trụy lạc. Quyền được kết hôn của người đồng tính được đề cập nhiều nhất. Các nôi dung như quyền yêu và được yêu, có con, nhận con nuôi, quyền tiếp cận với các dịch vụ tư vấn thể hiện không nhiều trong các bài báo.[31]
Một nhóm hơn 20 nhà báo có nhu cầu được mời dự lớp tập huấn, chia sẻ thông tin với chuyên gia tình dục học, nhà hoạt động xã hội trong ngoài nước cũng như gặp gỡ các tổ chức và cá nhân trong giới đồng tính. Mục đích là có kiến thức đúng, cập nhật về giới đồng tính để viết bài. Hoạt động này nằm trong dự án "Xây dựng hình ảnh tích cực của những người đồng tính, người lưỡng giới và chuyển giới tại Việt Nam" do iSEE thực hiện- Quỹ Ford tài trợ, kéo dài đến tháng 9 năm 2009.[33]
Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iESS)[50] và Khoa xã hội học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã kết hợp tiến hành một nghiên cứu quy mô về: "Thông điệp truyền thông về đồng tính luyến ái trên báo in và báo mạng". Nghiên cứu đã tổng hợp 502 bài báo nói về đồng tính đăng trên 4 báo in gồm Thanh niên,Tuổi trẻ, Tiền phong, Công an nhân dân, và 6 báo mạng gồm VnExpress, VietNamNet, Dantri, ngoisao.net, cand.com.vn, giadinh.net.vn, đăng tải vào năm 2004, 2006 và 2 quý đầu năm 2008. Nghiên cứu kết luận những thông điệp khách quan, khoa học sẽ giúp cộng đồng hình thành nhận thức đúng và hành vi chuẩn mực đối với nhóm xã hội này, ngược lại những thông điệp mang định kiến hoặc thiếu tính khoa học về người đồng tính có thể tạo ra hay củng cố những nhận thức sai lệch và thái độ kỳ thị. Các kết quả chủ yếu như sau[51]
Nghiên cứu đã chỉ ra các cách thức đưa tin đã tạo ra hình ảnh sai lệch về người đồng tính[51]:
Việc báo chí lạm dụng ngôn ngữ giật gân nhằm thu hút công chúng làm phương hại đến hình ảnh của người đồng tính, gây ra cách hiểu không đúng và định kiến xã hội đối với nhóm người này.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu đã đưa ra những khuyến nghị với các nhà làm truyền thông[51]:
Khái niệm đồng tính giả khá phổ biến ở Việt Nam.[44][52] Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse, tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu về đồng tính luyến ái. Trước sự xuất hiện của HIV/AIDS tại Việt Nam đầu thập niên 1990, có rất ít thông tin về đồng tính luyến ái. Theo bác sĩ Trần Bồng Sơn, nhà giới tính học nổi tiếng nhất[2] tại Việt Nam, có hai loại người đồng tính: thật và giả. Những người đồng tính thật là những người đồng tính bẩm sinh, và số người này rất hiếm. Theo ông, hầu hết những người đồng tính là "giả", bị bạn bè rủ rê hoặc muốn để thử nghiệm các lối sống mới, nhưng cuối cùng cũng sẽ trở về lối sống trước đó. Sau trao đổi ý kiến với ông Sơn, các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse cho rằng quan điểm đó thiên về ý kiến cá nhân của ông Sơn hơn là từ các nghiên cứu hay dữ liệu. Tuy thế, vì bác sĩ Sơn có nhiều ảnh hưởng và các tác phẩm của ông được biết tới rộng rãi, quan điểm này được phổ biến tại Việt Nam và được xem là đúng.[2]
Báo chí Việt Nam có những bài báo nói về thực trạng đồng tính nữ "theo phong trào" trong học đường. Những học sinh nữ này đều có hoàn cảnh éo le, gia đình không hạnh phúc, sức học yếu. Ngay trên mạng xã hội, nhiều nữ sinh cũng tham gia vào những diễn đàn "đấu tranh" cho việc kết hôn đồng tính, có em còn đăng nguyên ảnh thừa nhận mình là đồng tính nữ hoặc công khai những tấm ảnh hôn hít với bạn cùng giới dù thật sự các em không phải là người đồng tính. Phần lớn các cặp đồng tính nữ này sau thời gian ngắn thì chia tay và quay sang yêu người nam. Theo các chuyên gia tâm lý, sự xuất hiện nhiều cặp "đồng tính nữ giả" chủ yếu do một số nguyên nhân: Sự xuất hiện một số trang web, Facebook tạo nên một hiệu ứng xã hội về xu hướng sống mới, có một số bạn bị bạn bè rủ rê tham gia và trở thành nạn nhân của xu hướng sống mới này. Những em bị lôi cuốn bởi bạn bè của mình có rất nhiều xung đột từ chính bản thân của mình khiến cho các em trở nên cô đơn, dẫn đến sự "nổi loạn" về tâm lý được biểu hiện ra bằng những hành vi đồng tính.[53]
Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, Trưởng bộ môn Tâm lý, khoa Tâm lý giáo dục trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng:[29]
“ Đồng tính không phải là bệnh, không thể lây lan và không thể chữa được. Chính vì vậy chúng ta nên giúp những người đồng tính để họ có cuộc sống tốt hơn. Chúng ta có một số kỹ thuật để kiểm tra và tư vấn xem học sinh đó có là đồng tính thật hay không. Học sinh đồng tính cũng có nhiều nhu cầu như mọi em khác, như học tập, vui chơi, kết bạn, phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Những người tham gia công tác giáo dục trẻ em, những nhà chuyên môn, nhà tham vấn, phụ huynh cần có cái nhìn nghiêm túc về vấn đề này. ”
Bác sĩ Phạm Nam Việt, phòng khám nam khoa, bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, khuyên một phụ huynh có con là đồng tính:[54]
Ông Lê Quang Bình, viện trưởng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, cho rằng:[34]
“ Để giảm bớt sự kỳ thị của mọi người với người đồng tính cần cung cấp cho mọi người thêm kiến thức về người đồng tính để họ hiểu hơn. Kiến thức đó bao gồm các khía cạnh như xu hướng tình dục không phải là sự lựa chọn của mỗi người mà đó là điều sẵn có, và đồng tính không phải là bệnh. Nó cũng không lây như nhiều người nghĩ. Khi có được những hiểu biết đúng đắn sẽ dẫn đến thay đổi về hành vi, thái độ với người đồng tính. ”
Thực đơn
Quyền_LGBT_ở_Việt_Nam Xã hộiLiên quan
Quyền Quyền Anh Quyền lực phân lập Quyền Linh Quyền trẻ em Quyền LGBT ở Hoa Kỳ Quyền LGBT của các quốc gia, vùng lãnh thổ Quyền riêng tư trên Internet Quyền tác giả Quyền LGBT ở Việt NamTài liệu tham khảo
WikiPedia: Quyền_LGBT_ở_Việt_Nam http://www.gaylawnet.com/laws/vn.htm http://books.google.com/books?id=gem-0JOOWVMC&pg=P... http://outleadership.com/?media_post=vietnam-leads... http://www.tintucngaynay.com/trung-cau-cong-nhan-h... http://www.usatoday.com/news/world/story/ng%C3%A0y http://www2.hu-berlin.de/sexology/IES/vietnam.html http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/vua/k... http://archive.is/0Bpc http://dactrung.net/truyen/noidung.aspx?BaiID=cbLT... http://ngoisao.net/News/Chang-nang/2009/02/3B9C845...