Xã hội Quyền_LGBT_ở_Việt_Nam

Thuật ngữ

  • Straight là người dị tính luyến ái. Gay là người đồng tính nam. Lesbian hoặc les là người đồng tính nữ.
  • Bóng lộ là người đồng tính nam ăn mặc, cử chỉ như phụ nữ. Gay kín là người đồng tính nam có nam tính, và mọi người khó phát hiện là gay.
  • Fem chỉ người đồng tính nữ có nữ tính và mọi người khó phát hiện là les. Butch là người đồng tính nữ có nam tính, cử chỉ điệu bộ giống đàn ông. Soft butch là từ để chỉ một dạng khác của người đồng tính nữ, có bề ngoài và cá tính mạnh mẽ nhưng ở mức độ chừng mực, không cố gắng hết sức nhằm loại bỏ những đặc điểm nữ tính của mình (như cố tình ép ngực, cắt tóc ngắn, vân vân).
  • Come out là hành động công khai cho mọi người biết mình là người đồng tính.
  • Một cách bình dân mang tính xúc phạm (do sự thiếu hiểu biết của xã hội thời Pháp đô hộ) , pê-đê có thể chỉ người đồng tính nam và ô môi có thể chỉ người đồng tính nữ.

Các từ đồng tính , song tính, chuyển giới, đa dạng giới là từ khoa học và mang tính trung lập song các từ pê-đê, xăng pha nhớt, bóng lộ, bóng kín, hai thì, hifi mang tính xúc phạm ít hoặc nhiều.[33] Các thuật ngữ hay từ lóng còn lại chỉ phổ biến trong cộng đồng đồng tính. Cụm từ thế giới thứ ba mặc dù không mang tính xúc phạm và được dùng phổ biến bởi người dân và báo chí nhưng nó không có định nghĩa rõ ràng và thường để chỉ cộng đồng người đồng tính, song tính, người hoán tính/chuyển đổi giới tính, đa dạng tính, questioning (những người đang trong giai đoạn tìm hiểu về mình) một cách không phân biệt. (Nói thêm: Tuy "thế giới thứ ba" là một thuật ngữ phân chia địa lý nhưng nó vẫn bị người Việt Nam nhầm lẫn như một thuật ngữ để xếp những người LGBTQ+ vào một nhóm).

  • Ngoài ra còn các từ ngữ như: ái nam con gái hay bán nam bán nữ cũng chỉ chung chung về những người LGBT và mang tính xúc phạm ít nhiều.
  • Các từ Fem, Butch, Soft Butch giờ ít hoặc hiếm khi được sử dụng vì chưa thể hiện đúng định nghĩa về Lesbian.

Thái độ

Một người đang đọc cẩm nang danh cho phụ huynh.

Nhìn chung, ở Việt Nam thái độ của xã hội đối với đồng tính luyến ái là kỳ thị ở các mức độ khác nhau hoặc không thể hiện thái độ rõ ràng như phớt lờ, không quan tâm. Một tỉ lệ rất nhỏ người dân có thái độ cởi mở với người đồng tính. Nhiều người bắt đầu kêu gọi nên có thái độ cởi mở hơn đối với người đồng tính. Chưa có ghi nhận nào về sự khuyến khích, cổ vũ việc đồng tính luyến ái.

Nghiên cứu của Viện iSEE về sự kỳ thị của người đồng tính nam tại Việt Nam cho thấy:[34]

  • 1,5% cho biết đã bị đuổi học khi bị phát hiện là người đồng tính.
  • 4,1% bị kỳ thị về vấn đề nhà ở.
  • 4,5% cho biết từng bị tấn công và bị đánh đập vì là người đồng tính.
  • 15,1% cho biết bị gia đình chửi mắng vì là người đồng tính.

Theo tiến sĩ Marie-Eve Blanc, một giảng viên ở Đại học Montreal, Québec (Canada), người từng nghiên cứu về nguy cơ sức khỏe của nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam ở Việt Nam, đồng tính luyến ái chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam là do tư tưởng Khổng giáo. Theo Khổng giáo, người đàn ông nên lập gia đình và sinh con để nối dõi tông đường. Người đồng tính trẻ thường bị áp lực bởi gia đình là phải lập gia đình. Cha mẹ thường cảm thấy an tâm khi con trai họ đã lập gia đình. Nhưng sau khi lập gia đình, đồng tính luyến ái trở thành một bí mật và là cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân.[35]

Nhiều người cho rằng đồng tính luyến ái là do ảnh hưởng lối sống của phương Tây. Tuy nhiên theo tiến sĩ Blanc, điều này không đúng. Ngoài ra, sự du nhập của đạo Cơ đốc càng làm cho thành kiến đối với người đồng tính càng nặng nề hơn. Hơn nữa, hầu như các nước Đông Nam Á đều có thành kiến nặng nề với người đồng tính trừ Thái Lan, đất nước không bị đô hộ bởi phương Tây trong quá khứ.[35]

Nhiều người coi đồng tính luyến ái là không bình thường thậm chí là bệnh hoạn đặc biệt là ở nông thôn. Hành vi âu yếm của hai người cùng giới có thể làm cho nhiều người cảm thấy ghê tởm.[36] Nhiều bậc cha mẹ cảm thấy bị tổn thương, kinh ngạc, giận dữ, mắc cỡ hoặc hoang mang khi biết con mình đồng tính. Một số người tìm cách thay đổi con mình, trong khi một số người khác thì không quan tâm đến con nữa.[37]

Tuy nhiên, một số ít người bắt đầu cho rằng đồng tính luyến ái không phải là bệnh.[38] Thái độ của họ đối với người đồng tính có xu hướng cởi mở hơn.[39] Một số nhà tư vấn tâm lý cũng khuyên mọi người nên có thái độ bình tĩnh, tìm cách thấu hiểu và hỗ trợ khi biết người thân hoặc bạn bè là người đồng tính đặc biệt là cha mẹ khi biết sự thật về con mình.[40] Cha mẹ cũng cần thời gian để dần dần chấp nhận việc này.[41]

Trong cuộc thăm dò năm 2007 của Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh với 1 nhóm học sinh cấp 3, với câu hỏi "Người đồng tính luyến ái có xấu hay không?", hơn 80% học sinh trả lời là "không". Các học sinh này giải thích rằng vì đó là quyền tự do của mỗi người hoặc việc là người đồng tính không phải lỗi do bản thân người đó. Khi phát hiện trong lớp có bạn đồng tính, 72% học sinh khẳng định vẫn giữ mối quan hệ bình thường với bạn, kèm theo động viên (34%) và giữ kín bí mật cho bạn (35%), 2% học cảm thấy khinh bỉ và 13% thấy sợ.[29]

Vài chuyên gia tâm lý cho rằng giáo viên cần tôn trọng sự riêng tư của học sinh đồng tính và nên động viên họ để họ không tự đánh giá thấp bản thân, còn cha mẹ của những học sinh này cũng cần được cung cấp kiến thức về vấn đề này để tạo mối quan hệ gần gũi, thông cảm để họ không cảm thấy bị cô lập.[29]

Phần lớn người dân chưa hiểu biết nhiều và đúng về đồng tính luyến ái. Nhiều người không phân biệt được những khái niệm người đồng tính luyến ái, người hoán tính/chuyển đổi giới tính, người lưỡng tính, người đa tính dục mặc dù đây là những khái niệm khác nhau. Hơn nữa, đa số cho rằng đàn ông nữ tính hoặc phụ nữ nam tính là những người đồng tính. Có bài báo chỉ ra việc hiểu sai của nhiều người và giải thích rõ ràng sự khác biệt của ba khái niệm này.[42] Một bài báo nêu ra rằng những người đồng tính nam hiện nay thuộc ba nhóm chủ yếu: 70% có bề ngoài giống như những người đàn ông bình thường, khoảng 10% người ăn mặc, trang sức, tác phong như phụ nữ và khoảng 20% thuộc nhóm nằm giữa hai nhóm này. Bên cạnh đó, quan niệm cho rằng ngày nay càng có nhiều người đồng tính là do đua đòi cũng khá phổ biến. Tuy vậy, một bác sĩ cho biết ngày nay lượng người đồng tính dám thể hiện mình nhiều hơn không phải vì họ tăng lên mà chỉ vì cái nhìn của xã hội đã dần thông thoáng.[42]

Một số vấn đề vi phạm pháp luật liên quan tới người đồng tính hay được đăng trên các báo trong khi đó những mặt tích cực chưa được biết tới vì nhiều lý do. Nhiều bài báo cho rằng tội phạm đồng tính đang gia tăng.[43][44] Vài người lợi dụng mối quan hệ không công khai, để giết bạn tình là người đồng tính và cướp tài sản.[45][46] Vài tờ báo đăng về hiện tượng mại dâm nam trong đó người mua dâm có thể là những phụ nữ trung niên hoặc người đồng tính nam. Vài vụ đã bị công an phát hiện.[47][48] Đây là cách nhìn phân biệt đối xử do tội phạm có thể là bất cứ giới tính nào. Đồng thời, điều này có thể mang tính xúc phạm do không dùng đúng tên gọi của giới tính trên tiêu đề (đồng tính là cách gọi chung cho cả đồng tính nữ và nam). Những tin tức này có thể làm cho người dân đánh giá người đồng tính chỉ dựa trên một bộ phận trong cộng đồng này. Để có cái nhìn chính xác về các mặt pháp luật cần phải có những thống kê và nghiên cứu tỉ lệ phạm tội của người đồng tính và của người không phải là đồng tính cũng như những yếu tố đặc thù liên quan.

Điều tra quốc gia về "Quan điểm xã hội với hôn nhân cùng giới" được Viện Xã hội học (Viện Hàn lâm Khoa học - Xã hội Việt Nam) và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) công bố ngày 26/3/2014, cuộc điều tra được thực hiện tại 68 xã, phường thuộc 8 tỉnh, thành phố tại Việt Nam gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Đắk Lắk, TP.HCM, An Giang, Sóc Trăng với sự tham gia của 5.300 người dân.:[49]

  • 90% người dân Việt Nam biết về đồng tính và 62% biết về việc sống chung như vợ chồng giữa hai người cùng giới tính.
  • 30% người dân có quen ai đó là người đồng tính (họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm...).
  • Khi được hỏi về một số quyền cụ thể được đề cập đến trong Luật Hôn nhân – Gia đình, có 56% người dân cho rằng cặp đôi cùng giới nên có quyền cùng nhận con nuôi và nuôi con, 51% ủng hộ quyền sở hữu tài sản chung, 47% ủng hộ quyền thừa kế tài sản.
  • Đa số người dân cho rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới không ảnh hưởng đến gia đình (72,7%) hay cá nhân họ (63,2%).
  • Về việc công nhận quyền sống chung giữa những người cùng giới tính, số người ủng hộ là 41,2% (hình thức sống chung theo dạng "kết hợp dân sự" hoặc "đăng ký sống chung như vợ chồng) và 33,7% ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới.

Báo chí truyền thông

Định kiến đối với người đồng tính trên báo chí được cho là giảm theo thời gian mặc dù tỉ lệ kỳ thị còn cao. Năm 2009, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường cùng với Học viện Báo chí và Tuyên truyền, qua nghiên cứu hơn 500 bài báo thuộc bốn báo in và sáu báo mạng, cung cấp kết quả tỉ lệ kỳ thị chiếm 41%, không kỳ thị chiếm 18%, không xác định 41%. Tuy nhiên, cộng đồng đồng tính Việt Nam rất đa dạng, không như mô tả của hơn 500 bài báo này.[33] Có người cho rằng các cơ quan truyền thông cần đăng tải những bài viết, hình ảnh "người thực việc thực".[32]

Vấn đề đồng tính là chủ đề chính trong các bài báo chỉ chiếm tỷ lệ 1/3. Tỷ lệ 2/3 còn lại, đồng tính được nhắc đến như chủ đề phụ. Khi nói về những người nổi tiếng, đồng tính được sử dụng là chi tiết để gây sự chú ý cho người đọc cho thấy cách nhìn nhận vấn đề chưa đúng đắn. Điều này khiến xã hội có cái nhìn phiến diện về đồng tính luyến ái.

Rất ít bài báo đề cập đến nguy cơ hành vi tình dục của người đồng tính và nếu có đề cập, thông tin cũng mơ hồ và không đầy đủ. Nhiều bài viết thiên về quan niệm hành vi tình dục của người đồng tính là đáng lên án, lệch chuẩn, là ăn chơi đua đòi, sống trụy lạc. Quyền được kết hôn của người đồng tính được đề cập nhiều nhất. Các nôi dung như quyền yêu và được yêu, có con, nhận con nuôi, quyền tiếp cận với các dịch vụ tư vấn thể hiện không nhiều trong các bài báo.[31]

Một nhóm hơn 20 nhà báo có nhu cầu được mời dự lớp tập huấn, chia sẻ thông tin với chuyên gia tình dục học, nhà hoạt động xã hội trong ngoài nước cũng như gặp gỡ các tổ chức và cá nhân trong giới đồng tính. Mục đích là có kiến thức đúng, cập nhật về giới đồng tính để viết bài. Hoạt động này nằm trong dự án "Xây dựng hình ảnh tích cực của những người đồng tính, người lưỡng giới và chuyển giới tại Việt Nam" do iSEE thực hiện- Quỹ Ford tài trợ, kéo dài đến tháng 9 năm 2009.[33]

Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iESS)[50] và Khoa xã hội học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã kết hợp tiến hành một nghiên cứu quy mô về: "Thông điệp truyền thông về đồng tính luyến ái trên báo in và báo mạng". Nghiên cứu đã tổng hợp 502 bài báo nói về đồng tính đăng trên 4 báo in gồm Thanh niên,Tuổi trẻ, Tiền phong, Công an nhân dân, và 6 báo mạng gồm VnExpress, VietNamNet, Dantri, ngoisao.net, cand.com.vn, giadinh.net.vn, đăng tải vào năm 2004, 2006 và 2 quý đầu năm 2008. Nghiên cứu kết luận những thông điệp khách quan, khoa học sẽ giúp cộng đồng hình thành nhận thức đúng và hành vi chuẩn mực đối với nhóm xã hội này, ngược lại những thông điệp mang định kiến hoặc thiếu tính khoa học về người đồng tính có thể tạo ra hay củng cố những nhận thức sai lệch và thái độ kỳ thị. Các kết quả chủ yếu như sau[51]

  • 79% những bài báo kể về người đồng tính ở thành thị, trong khi chỉ có 4% số bài nói về người đồng tính ở nông thôn. Điều này có thể khiến người đọc suy nghĩ thiếu căn cứ rằng tỷ lệ người đồng tính ở đô thị cao hơn nông thôn. Thực chất, người đồng tính ở nông thôn thường có xu hướng giấu kín khuynh hướng tình dục của mình hơn.
  • 80% số bài báo nói về người đồng tính ở tuổi thanh niên, trong khi các nhóm tuổi khác rất ít. Điều này khó tránh khỏi những lý giải không thoả đáng nghiêng về lối sống và văn hoá của giới trẻ hơn là xem xét bản chất vấn đề.
  • 3/4 số bài nói về người đồng tính nam, trong khi chỉ 1/4 số bài về người đồng tính nữ khiến nhóm đồng tính nữ ít được chú ý hơn nam. Thực chất nhóm đồng tính nam thường có xu hướng lộ diện hơn còn nhóm đồng tính nữ có xu hướng giấu kín hơn.
  • Tỷ lệ lớn chỉ nói về người đồng tính trong lĩnh vực nghệ thuật, có thể gây ấn tượng sai lầm cho rằng người đồng tính tập trung trong giới nghệ thuật. Thực chất người đồng tính có trong mọi lĩnh vực ngành nghề nhưng người hoạt động nghệ thuật thường công khai xu hướng tình dục (come out) nhiều hơn. Trong một khảo sát của iSEE, người đồng tính trong lĩnh vực nghệ thuật chỉ chiếm thứ hai (13.5%), sau nhóm làm trong lĩnh vực dịch vụ khách hàng (18%) và chỉ nhỉnh hơn nhóm nghiên cứu và khoa học kỹ thuật (11.4%).
  • Các khái niệm liên quan đến đồng tính bị sử dụng nhầm lẫn: như quy khái niệm "chuyển giới" về khái niệm "đồng tính", nhầm lẫn bản chất của "định hướng tình dục", "bản dạng tình dục""Hành vi tình dục"... có thể cung cấp kiến thức sai và gây hiểm nhầm cho xã hội.
  • Nhấn mạnh quá mức hoặc phiến diện về nhu cầu tình dục của người đồng tính: Mô tả người đồng tính là nhóm có nhu cầu tình dục lớn, không kiềm chế được bản năng tình dục hoặc thỏa mãn tình dục bằng mọi giá; quan hệ tình dục với trẻ em; bạo dâm… từ đó có thể tạo ra định kiến xã hội rằng tình dục đồng tính là đáng lên án, đáng ghê tởm, không an toàn, là lối sống trụy lạc. Trong khi nhu cầu tình dục của người dị tính được xem là bình thường và đương nhiên thì nhu cầu tình dục và hành vi tình dục của người đồng tính bị xem như một hiện tượng bất thường, khó chấp nhận, thậm chí đáng ghê tởm.
  • Mô tả thiên lệch mối quan hệ của người đồng tính: Chủ yếu viết về người đồng tính tìm kiếm bạn tình qua các kênh như mạng internet, câu lạc bộ, quán bar, cà phê, vũ trường, hộp đêm, mát xa, công viên, đứng đường… đã bổ sung thêm cho định kiến về nhóm đồng tính là nhóm ăn chơi, buông thả, nhân cách không tốt. Nhiều bài thể hiện nhóm đồng tính như những người có nhiều bạn tình một lúc và thay đổi liên tục, hoặc mối quan hệ chỉ chóng vánh không bền vững... Thực chất tình yêu của người đồng tính giống người dị tính nhưng thường không được xã hội và gia đình thừa nhận và ủng hộ, khi gặp khó khăn không ai chia sẻ cảm thông, nên việc duy trì tình yêu và mối quan hệ bền vững đối với người đồng tính là khó khăn hơn nhiều.
  • Mô tả chân dung người đồng tính với nhân cách hay đạo đức không tốt: Gắn các bài liên quan đến tội phạm, tệ nạn xã hội giết người, ma túy, mại dâm... trong đó thủ phạm hoặc chủ thể của tệ nạn là người đồng tính để cập nhân cách đạo đức của người đồng tính.
  • Các nhu cầu của người đồng tính được đề cập thiếu khách quan, các quyền của người đồng tính không được nhắc đến: Trong khi nhu cầu tình dục bị nhấn mạnh quá mức tạo ra định kiến thì các nhu cầu khác như: nhu cầu yêu và được yêu, nhu cầu kết hôn và có con, nhu cầu khẳng định bản thân và được người khác tôn trọng… không được quan tâm đúng mức. Ví dụ, nhu cầu con cái của người đồng tính chỉ được nhắc đến trong 25 trên tổng số 502 bài...
  • Quan hệ gia đình và xã hội của người đồng tính ít được quan tâm.

Nghiên cứu đã chỉ ra các cách thức đưa tin đã tạo ra hình ảnh sai lệch về người đồng tính[51]:

  • Sử dụng ngôn ngữ làm tăng định kiến với nhóm đồng tính:
Nhóm ngôn ngữ tích cực chỉ xuất hiện ở một phần ba trong tổng số các bài được đưa vào nghiên cứu. Một số bài báo còn sử dụng các ngôn ngữ tạo kỳ thị trong nội dung hoặc tiêu đề để gây sự hiếu kỳ, giật gân, câu khách như: pêđê, bóng/bóng lộ/bóng kín; thế giới thứ 3/giới tính thứ 3; chuyển giới; trai xịn, xăng pha nhớt, hai thì, hifi, đa hệ, dân gay, đồng cô, lưỡng tính, tám vía, má mì, đồng cô bóng cậu, bống, ômôi, bướm, trai gọi đồng tính... Một số tác giả sử dụng ngôn ngữ chỉ sự thấp hèn, hàm chứa sự coi thường và chế nhạo người đồng tính. Một số nhà báo sử dụng ngôn ngữ nhân đạo, thương cảm, thông cảm, thương hại khi viết về người đồng tính.

Việc báo chí lạm dụng ngôn ngữ giật gân nhằm thu hút công chúng làm phương hại đến hình ảnh của người đồng tính, gây ra cách hiểu không đúng và định kiến xã hội đối với nhóm người này.

  • Cố gắng giải thích nguyên nhân của đồng tính:
17% bài viết đề cập đến nguyên nhân đồng tính lại cho rằng đồng tính là do đua đòi, để thể hiện sự sành điệu mà làm “đồng tính giả”, bị “tuột không phanh” và cuối cùng thành “đồng tính thật”... tạo sự sự xa lánh, hiểu lầm và kỳ thị với người đồng tính. Tồn tại 2 nhóm cố gắng tìm cách lý giải nguyên nhân đồng tính chia theo 2 hướng chủ yếu: hướng y – sinh học xem đồng tính là bẩm sinh, và hướng y – xã hội xem đồng tính là do lây lan, đua đòi, vì tiền, vì bối cảnh sống, vì có “căn quả”..v..v.. Hướng thứ nhất coi đồng tính là bẩm sinh nhưng lại hướng công chúng thông cảm với tình cảnh của nhóm không may mắn. Hướng thứ hai khắc họa đồng tính là nhóm lệch chuẩn, bị lên án, cần hạn chế và ngăn chặn. Cả hai hướng lý giải như trên đều không thoả đáng với người đồng tính và tạo ra những định kiến, kỳ thị với nhóm này.
  • Khắc họa chân dung người đồng tính dựa trên khuôn mẫu giới:
Khắc họa người đồng tính qua lăng kính, chuẩn mực của người dị tính hoặc mô tả đặc điểm giống người chuyển giới, tạo cho công chúng hình ảnh sai lầm và phiến diện, làm mất đi sự phong phú đa dạng về tâm lý – xã hội của người đồng tính,.
  • Mức độ kỳ thị trong nội dung các bài báo còn khá cao:
Nhóm đồng tính bị hạ thấp giá trị so với nhóm dị tính trên cơ sở những khác biệt so với chuẩn mực của nhóm dị tính. 41% tổng số các bài báo được đưa vào nghiên cứu vẫn chứa đựng yếu tố kỳ thị ở các khía cạnh.

Trên cơ sở đó, nghiên cứu đã đưa ra những khuyến nghị với các nhà làm truyền thông[51]:

  • Tìm hiểu và bồi đắp các kiến thức khoa học về định hướng tình dục, bản dạng giới.
  • Cẩn trọng khi sử dụng ngôn ngữ: Tránh sử dụng ngôn ngữ gọi tên với hàm ý hạ thấp, coi thường, ngôn ngữ giật gân, câu khách, đấu tranh đạo đức - tệ nạn xã hội, ngôn ngữ về nỗi sợ hãi…, là các nhóm ngôn ngữ thiếu tích cực. Thay vào đó sử dụng ngôn ngữ tích cực để mô tả những người đồng tính một cách khách quan, bình đẳng và tôn trọng.
  • Tiếp cận vấn đề với ý thức tôn trọng sự đa dạng và khác biệt: Tránh dùng chuẩn mức của nhóm dị tính để so sánh và hạ thấp giá trị của nhóm đồng tính, loại bỏ các định kiến và khuôn mẫu để mô tả chân thực sự đa dạng về tâm lý xã hội của nhóm người đồng tính...
  • Đề cao sứ mạng của truyền thông với xã hội: Phản ánh chân thực đời sống của người đồng tính, xóa bỏ định kiến và hướng đến một xã hội tự do, bình đẳng.

Khái niệm đồng tính giả khá phổ biến ở Việt Nam.[44][52] Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse, tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu về đồng tính luyến ái. Trước sự xuất hiện của HIV/AIDS tại Việt Nam đầu thập niên 1990, có rất ít thông tin về đồng tính luyến ái. Theo bác sĩ Trần Bồng Sơn, nhà giới tính học nổi tiếng nhất[2] tại Việt Nam, có hai loại người đồng tính: thật và giả. Những người đồng tính thật là những người đồng tính bẩm sinh, và số người này rất hiếm. Theo ông, hầu hết những người đồng tính là "giả", bị bạn bè rủ rê hoặc muốn để thử nghiệm các lối sống mới, nhưng cuối cùng cũng sẽ trở về lối sống trước đó. Sau trao đổi ý kiến với ông Sơn, các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse cho rằng quan điểm đó thiên về ý kiến cá nhân của ông Sơn hơn là từ các nghiên cứu hay dữ liệu. Tuy thế, vì bác sĩ Sơn có nhiều ảnh hưởng và các tác phẩm của ông được biết tới rộng rãi, quan điểm này được phổ biến tại Việt Nam và được xem là đúng.[2]

Báo chí Việt Nam có những bài báo nói về thực trạng đồng tính nữ "theo phong trào" trong học đường. Những học sinh nữ này đều có hoàn cảnh éo le, gia đình không hạnh phúc, sức học yếu. Ngay trên mạng xã hội, nhiều nữ sinh cũng tham gia vào những diễn đàn "đấu tranh" cho việc kết hôn đồng tính, có em còn đăng nguyên ảnh thừa nhận mình là đồng tính nữ hoặc công khai những tấm ảnh hôn hít với bạn cùng giới dù thật sự các em không phải là người đồng tính. Phần lớn các cặp đồng tính nữ này sau thời gian ngắn thì chia tay và quay sang yêu người nam. Theo các chuyên gia tâm lý, sự xuất hiện nhiều cặp "đồng tính nữ giả" chủ yếu do một số nguyên nhân: Sự xuất hiện một số trang web, Facebook tạo nên một hiệu ứng xã hội về xu hướng sống mới, có một số bạn bị bạn bè rủ rê tham gia và trở thành nạn nhân của xu hướng sống mới này. Những em bị lôi cuốn bởi bạn bè của mình có rất nhiều xung đột từ chính bản thân của mình khiến cho các em trở nên cô đơn, dẫn đến sự "nổi loạn" về tâm lý được biểu hiện ra bằng những hành vi đồng tính.[53]

Lời khuyên và phát biểu

Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, Trưởng bộ môn Tâm lý, khoa Tâm lý giáo dục trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng:[29]

“ Đồng tính không phải là bệnh, không thể lây lan và không thể chữa được. Chính vì vậy chúng ta nên giúp những người đồng tính để họ có cuộc sống tốt hơn. Chúng ta có một số kỹ thuật để kiểm tra và tư vấn xem học sinh đó có là đồng tính thật hay không. Học sinh đồng tính cũng có nhiều nhu cầu như mọi em khác, như học tập, vui chơi, kết bạn, phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Những người tham gia công tác giáo dục trẻ em, những nhà chuyên môn, nhà tham vấn, phụ huynh cần có cái nhìn nghiêm túc về vấn đề này. ”

Bác sĩ Phạm Nam Việt, phòng khám nam khoa, bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, khuyên một phụ huynh có con là đồng tính:[54]

  • Giữ kín bí mật cho con nếu con muốn giữ bí mật.
  • Hãy là chỗ dựa tinh thần cho con. Cháu đã bị rất nhiều áp lực từ xã hội, đừng để cháu bị bất cứ một chút áp lực nào từ gia đình nữa. Không nên ép buộc cháu thừa nhận là đồng tính mà hãy để cháu tự nói ra khi cháu thấy đủ tự tin và cần thiết.
  • Hãy để chính con chị là người quyết định cuối cùng trong mọi quyết định về lối sống (phụ huynh có thể tham gia với vai trò của một người tư vấn định hướng), vì chỉ như vậy cháu mới tìm được sự thanh thản và hạnh phúc.

Ông Lê Quang Bình, viện trưởng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, cho rằng:[34]

“ Để giảm bớt sự kỳ thị của mọi người với người đồng tính cần cung cấp cho mọi người thêm kiến thức về người đồng tính để họ hiểu hơn. Kiến thức đó bao gồm các khía cạnh như xu hướng tình dục không phải là sự lựa chọn của mỗi người mà đó là điều sẵn có, và đồng tính không phải là bệnh. Nó cũng không lây như nhiều người nghĩ. Khi có được những hiểu biết đúng đắn sẽ dẫn đến thay đổi về hành vi, thái độ với người đồng tính. ”


Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quyền_LGBT_ở_Việt_Nam http://www.gaylawnet.com/laws/vn.htm http://books.google.com/books?id=gem-0JOOWVMC&pg=P... http://outleadership.com/?media_post=vietnam-leads... http://www.tintucngaynay.com/trung-cau-cong-nhan-h... http://www.usatoday.com/news/world/story/ng%C3%A0y http://www2.hu-berlin.de/sexology/IES/vietnam.html http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/vua/k... http://archive.is/0Bpc http://dactrung.net/truyen/noidung.aspx?BaiID=cbLT... http://ngoisao.net/News/Chang-nang/2009/02/3B9C845...